banner

DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT QUỐC HỘI VỀ CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THÁO GỠ KHÓ KHĂN PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA GIAI ĐOẠN 2026 – 2030 |

DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT QUỐC HỘI VỀ CÁC CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THÁO GỠ KHÓ KHĂN PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA GIAI ĐOẠN 2026 – 2030

VCI Legal – Ngày 29 tháng 11 năm 2025

Ngày 24/11/2025, tại Phiên họp thứ 51, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 – 2030 (“Dự thảo”). Trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 – 2030, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã nêu những vướng mắc thực tiễn và các giải pháp cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng quốc gia.  

Bài viết này sẽ phân tích cụ thể các điều khoản nổi bật trong dự thảo Nghị quyết Quốc hội về cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 – 2030.  

1. Căn cứ điều chỉnh linh hoạt Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong Quy hoạch tỉnh

Việc điều chỉnh được thực hiện khi có một trong các căn cứ: 

  • Yêu cầu đột xuất, cấp bách vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia thực hiện theo Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; 
  • Cần điều chỉnh quy hoạch để kịp thời bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức, cá nhân; 
  • Điều chỉnh dự án nguồn điện: Bao gồm tên gọi, tiến độ, địa danh hành chính và quy mô công suất (không thay đổi quá 10%); bổ sung dự án nguồn điện để bù đắp, thay thế các dự án chậm tiến độ hoặc không triển khai; đáp ứng nhu cầu phụ tải tăng đột biến, nhưng không làm tăng tổng công suất lắp đặt theo cơ cấu từng loại hình nguồn điện trong quy hoạch. 
  • Điều chỉnh dự án lưới điện để đồng bộ với nguồn điện, giải tỏa công suất hoặc đáp ứng nhu cầu phụ tải, bảo đảm vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện quốc gia. 

2. Chủ trương đầu tư dự án điện lực

Để đẩy nhanh tiến độ đầu tư, dự thảo quy định các dự án công trình điện lực đã có trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, trừ các dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội, lưới điện trung/hạ áp, dự án khẩn cấp và điện gió ngoài khơi. 

Theo đó, Chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (hoặc doanh nghiệp do doanh nghiệp này nắm giữ 100% vốn điều lệ) thực hiện dự án điện lực quan trọng, cấp bách quốc gia không phải thực hiện thủ tục trình cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước để thông qua, phê duyệt nội dung liên quan đến dự án, huy động vốn, thế chấp tài sản để vay vốn,… nhưng phải báo cáo kết quả thực hiện cho cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước. 

Dự án điện lực quan trọng, cấp bách, cấp quốc gia đang triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng được thực hiện song song với việc hiệu chỉnh, bổ sung, cập nhật về quy hoạch chung, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng rừng. 

UBND cấp tỉnh được quyết định giao doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc doanh nghiệp do doanh nghiệp này nắm giữ 100% vốn điều lệ làm chủ đầu tư các dự án công trình lưới điện truyền tải trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia. 

3. Cơ chế áp dụng cho dự án BOT điện

  • Luật áp dụng: Công ty BOT tiến hành các hoạt động theo quy định pháp luật Việt Nam. Trường hợp có tranh chấp xảy ra liên quan đến việc áp dụng và giải thích hợp đồng (ngoại trừ hợp đồng thuê đất) thì có thể áp dụng theo pháp luật nước ngoài do các bên lựa chọn. 
  • Các hợp đồng dự án được làm bằng tiếng Việt và tiếng Anh, trường hợp có sự khác nhau giữa hai ngôn ngữ thì áp dụng tiếng Anh (riêng đối với hợp đồng thuê đất thì áp dụng bản tiếng Việt). 
  • Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê để thực hiện dự án được thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liên với đất tại các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức tín dụng nước ngoài. 
  • Giá điện trong hợp đồng mua bán điện được tính bằng đô la Mỹ, việc thanh toán được thực hiện bằng đồng Việt Nam.  
  • Thời hạn hợp đồng dự án là 20 năm kể từ ngày vận hành thương mại của nhà máy đối với các dự án nhà máy nhiệt điện sử dụng khí, khí tự nhiên hoá lỏng; là 25 năm đối với với các dự án nhà máy nhiệt điện sử dụng than. Thời hạn vận hành thương mại được thực hiện linh hoạt theo cam kết quốc tế và giảm phát thải. 
  • Thời hạn bảo lãnh của Chính phủ: Đối với hợp đồng BOT là toàn bộ thời hạn hợp đồng dự án; đối với hợp đồng mua bán điện: các dự án sử dụng khí, khí tự nhiên hoá lỏng là 15 năm, các dự án sử dụng than là 18 năm. 

Các thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đặc biệt quan tâm và yêu cầu làm rõ các cơ chế đặc thù liên quan đến áp dụng pháp luật nước ngoài trong hợp đồng BOT và việc thế chấp quyền sử dụng đất. Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng nêu lên sự không rõ ràng về thời điểm các bên lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài, “liệu là áp dụng theo pháp luật nước ngoài đã được thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng từ đầu, hay chỉ khi xảy ra tranh chấp thì các bên mới thỏa thuận chọn luật áp dụng”. Ông khẳng định theo nguyên tắc chung, các bên phải thỏa thuận luật áp dụng từ đầu, nếu để đến lúc tranh chấp mới thỏa thuận thì sẽ phát sinh thêm một tranh chấp khác. 

Ngoài ra, chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh vấn đề này cần làm rõ cơ chế thế chấp và khẳng định pháp luật về đất đai hiện nay chưa cho phép thế chấp quyền sử dụng đất tại các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức tín dụng nước ngoài. Do đó, nếu cần thiết quy định, cần phải đánh giá tác động cụ thể, xin ý kiến cấp có thẩm quyền tương tự như chính sách dành cho trung tâm tài chính quốc tế. 

4. Phát triển điện gió ngoài khơi

Một vấn đề được nêu trong dự thảo Nghị quyết là về điện gió ngoài khơi quy chi tiết xử lý chi phí khảo sát, lập đề xuất chủ trương đầu tư; quy định thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Cụ thể:

  • Xử lý chi phí khảo sát dự án điện gió ngoài khơi thực hiện để đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư được xác định: (1) Nhà đầu tư trúng thầu hoàn trả hoặc được tham gia góp vốn phát triển dự án; (2) Được hạch toán và chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nếu không có nhà đầu tư trúng thầu; 
  • Chấp thuận nhà đầu tư dự án điện gió ngoài khơi: 
  • Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho các nhà đầu tư là doanh nghiệp nhà nước/ Doanh nghiệp tư nhân có ngành nghề kinh doanh chính là kinh doanh điện, vốn điều lệ tối thiểu 10,000 tỷ đồng và vốn chủ sỡ hữu tối thiếu 15% tổng vốn đầu tư dự án đề xuất. Các dự án này phải đáp ứng điều kiện về quốc phòng, an ninh, chủ quyền. tài nguyên – môi trường biển, hàng hải,…; điều kiện về thời điểm chấp thuận chủ trương dự án trước 01/01/2031; và điều kiện về tổng quy mô công suất các dự án không vượt quá 6.000 MW và nằm trong quy hoạch phát triển điện lựic quốc gia. 
  • UBND cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư như sau: (1) dự án bán điện lên hệ thống có trạm gom công suất thuộc địa giới hành chính do mình quản lý; (2) dự án xuất khẩu điện. 

Việc quy định như dự thảo tạo điều kiện cho doanh nghiệp có khả năng, năng lực thực sự có thể tiếp cận ngành nghề đòi hỏi nguồn vốn lớn, công nghệ cao, hiện đại và nguồn lực dồi dào như lĩnh vực điện gió ngoài khơi. 

Ngoài ra, dự thảo nghị quyết cũng quy định một số chính sách ưu đãi đối với dự án điện gió ngoài khơi, cụ thể như sau: 

  • Đối với dự án xuất khẩu: Miễn, giảm tiền thuê khu vực biển, tiền thuê đất; 
  • Đối với dự án sản xuất điện phục vụ nhu cầu điện trong nước: 
  • Áp dụng sản lượng điện hợp đồi tối thiều dài hạn là 90% sản lượng điện bình quân trong nhiều năm của dự án trong thời hạn trả nợ gốc vốn vay nhưung không quá 15 năm đối với dự án được chấp thuận trước 01/01/2030, phát điện trước 01/01/2032; 
  • Áp dụng sản lượng điện hợp đồi tối thiều dài hạn là 80% sản lượng điện bình quân trong nhiều năm của dự án trong thời hạn trả nợ gốc vốn vay nhưung không quá 15 năm đối với dự án được chấp thuận trước 01/01/2032, phát điện trước 01/01/2036; 

Nếu nghị quyết được thông qua các chính sách hỗ trợ được kỳ vọng tạo bước tiến lớn nhằm “giải toả nút thắt cho hàng loạt dự án đã và đang đề xuất ở nhiều địa phương. 

Ngoài ra, góp ý tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị làm rõ cơ chế bảo lãnh gián tiếp của Chính phủ đối với các tập đoàn và doanh nghiệp, nhằm đảm bảo an toàn nợ công và ổn định tài khóa. Ông cũng yêu cầu xem xét thêm các nội dung về cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA) và việc tính giá điện bằng USD trong hợp đồng PPA – hai vấn đề ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn quốc tế.  

Trước đó, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long cho biết, nhiều tập đoàn tư nhân lớn đã gửi đề xuất triển khai điện gió ngoài khơi sau khi Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành. Bộ kỳ vọng dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên sẽ được khởi động vào cuối năm nay. 

Mặc dù từng có đề xuất lùi tiến độ phát triển điện gió ngoài khơi sau năm 2030 do chi phí đầu tư lớn (ước 60-70 tỷ USD), Thường trực Chính phủ đã chỉ đạo không lùi tiến độ, nhấn mạnh đây là lĩnh vực chiến lược cho an ninh năng lượng dài hạn.

5. Thực tiễn về lĩnh vực điện gió ngoài khơi tại Việt Nam

Ngày 18/4/2025, Cục Khí tượng thủy văn phối hợp cùng Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam, Đại sứ quán Na Uy tại Việt Nam đã công bố báo cáo đánh giá chi tiết tiềm năng kỹ thuật năng lượng gió ngoài khơi Việt Nam. Báo cáo cung cấp bức tranh toàn diện, cập nhật và có độ phân giải cao về tiềm năng tài nguyên gió biển của Việt Nam – một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió ngoài khơi lớn nhất khu vực. 

Hiện nay, Việt Nam có 17 dự án điện gió ven bờ đã đi vào vận hành thương mại với tổng công suất đặt 763,45 MW, chiếm tỷ lệ 19,2% so với tổng công suất đặt điện gió của Việt Nam (3980 MW). Các dự án ven bờ đã góp phần đáng kể cung cấp công suất ổn định vào hệ thống điện quốc gia. Lợi thế của các dự án điện gió ven bờ là có vận tốc gió tốt và thi công thuận lợi hơn so với các dự án điện gió trên bờ do không vướng mặt bằng thi công. Ngoài ra, các dự án ven bờ có các đường dây kết nối ngắn nên giảm tổn thất truyền tải đáng kể.

Tại TP. HCM, Sở Công Thương từng báo cáo hai đề xuất đáng chú ý: (1) Dự án điện gió ngoài khơi Cần Giờ, công suất 1.000MW, triển khai tại Lý Nhơn – Long Hòa – Cần Thạnh; (2) Dự án 6.000MW, gồm 4.000MW hòa lưới quốc gia và 2.000MW sản xuất hydrogen xanh sau năm 2030.  

Tháng 5/2024, Tập đoàn Vingroup có văn bản đến UBND TP. HCM, đề xuất đầu tư dự án điện gió gần bờ tại huyện Cần Giờ. Theo đề xuất, dự án có công suất khoảng 3.000MW, sản xuất khoảng 9 tỷ kWh điện mỗi năm, với tổng mức đầu tư sơ bộ khoảng 4,5 tỷ USD. Vingroup cho biết mục tiêu dự án nhằm đáp ứng nhu cầu điện cho khu đô thị lấn biển Cần Giờ và các hoạt động sử dụng điện nội bộ khác của Tập đoàn. Để có cơ sở nghiên cứu chi tiết, doanh nghiệp đề nghị UBND TP. HCM cho phép khảo sát khu vực biển Cần Giờ diện tích 1.163ha, bao trùm toàn bộ vùng biển của huyện. Hai dự án đang ở giai đoạn đề xuất nghiên cứu, nhưng được xem là những dự án trọng điểm của thành phố trong lộ trình phát triển năng lượng sạch. 

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ngành điện gió ngoài khơi vẫn đang đối mặt với những thách thức, rào cản nhất định dẫn đến sự chậm trễ trong việc triển khai dự án điện gió ngoài khơi ở Việt Nam. Từ đó, để thúc đẩy sự phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam, cần thiết đề xuất các giải pháp trong liên quan đến khía cạnh lập pháp, công nghệ kỹ thuật, nguồn nhân lực, xây dựng,… tận dụng những tiềm năng lợi thế vốn có trên vùng biển Việt Nam, điều kiện tự nhiên, từ đó, xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý, hoàn thiện hạ tầng, thúc đẩy phát triển công nghệ tiên tiến góp phần đưa ngành điện gió ngoài khơi Việt Nam trở thành một trong những trụ cột quan trọng trong hệ thống điện quốc gia. 


About VCI Legal:

VCI Legal is an award-winning business law firm in Vietnam with a wide range of legal and corporate services, among other things, corporate, banking & finance, tax, labor & HR, real estate and dispute resolution with special focus on international investment disputes, We also offer our specialized type of service called “In-House Counsel Service” with the aim of assisting our clients in dealing with all types of internal and external issues arising from their day-to-day operations and business activities. With our offices in both Hanoi and Ho Chi Minh City, we have a tremendous depth of experience in providing well-reasoned and comprehensive legal advice to not only multinationals and Fortune 500 companies, but also small and medium enterprises.

Our professional team comprises one of the leading law firms in Vietnam with service quality highly recommended and acknowledged by international legal service reviewers such as: The Legal 500, AsiaLaw Profiles, IFLR, KPMG’s Tax Directors’ Handbook, Acquisition International, ACQ Global, Global Law Experts, Finance Monthly, and Chambers & Partners.

For many years, VCI Legal has been ranked among the top law firms in Vietnam for corporate, finance, insurance, taxation, employment, intellectual property and investment. With a “Can Do Attitude” combined with a “Know How” capacity, our firm is big enough to provide comprehensive legal support for any in-house legal matters, yet small enough to care about each of our clients. We undertake each engagement with the mindset of a long-term relationship, with the will to give whatever it takes to understand and fulfill your needs.


Ho Chi Minh City

Suite P7-42.18, Vinhomes Central Park, 720A Dien Bien Phu, Thanh My Tay Ward, Ho Chi Minh City, Vietnam

Tel.: (+84) 028 3827 2029 Fax: (+84) 028 3823 4436

Hanoi

Suite 1903, Floor 19, W1 Tower, Vinhomes Westpoint, Pham Hung, Tu Liem Ward, Hanoi City, Vietnam

Tel.: (+84) 024 3936 4985 – (+84) 024 3936 4987

Affiliated Offices: Beijing – Shanghai – Hanoi – Ho Chi Minh City – Singapore – New Delhi – Dubai – Doha – Zurich Paris – Rome – Brescia – Washington D.C. – Los Angeles

 

 

Go to
  • Expertise
  • People
  • Cases
  • Courses